Trong đó, số HTX hoạt động hiệu quả cũng đã tăng dần lên
Tổng kết các hình thức giao khoán, bảo vệ rừng; song song bổ sung các chính sách, giải pháp đảm bảo cho người dân làm giàu từ rừng. Theo Bộ trưởng Cao Đức Phát, tiến độ này chưa bắt kịp bình quân chung là do đặc thù điều kiện tự nhiên, kinh tế, từng lớp của các địa phương còn nhiều khó khăn, Do đó, Hội nghị sơ kết ngoài mục đích nhìn lại 3 năm thực hành chương trình, còn là cơ hội kiến nghị các cơ chế, chính sách đặc thù để xúc tiến hiệu quả chương trình xây dựng NTM, làm nền móng để thay đổi, nâng cao đời sống của người dân địa phương.
Nguyễn Tiến Dũng (tổng hợp). Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát đánh giá: Tiến độ xây dựng NTM tại các tỉnh miền núi phía Bắc còn chậm so với tiến độ chung của cả nước.
Ngoài ra, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho rằng, các địa phương miền núi phía Bắc cần phải tìm tòi cách làm hay phù hợp với địa phương, khắc phục khó khăn và đạt được kết quả tốt hơn nữa trong Chương trình đích nhà nước về xây dựng NTM. Để tạo bước “đột phá”, các tỉnh cần có chính sách khuyến khích liên kết sinh sản - chế biến - tiêu thụ, xây dựng “cánh đồng lớn”. Bây chừ, toàn vùng có 1. Quy hoạch sinh sản tốt thì mới chọn được cây trồng, vật nuôi lợi thế, tránh tình trạng được mùa mất giá, cùng với xây dựng mối “kết liên 4 nhà” sẽ tạo ra thu nhập cao, ổn định cho người dân, tác động hiệu quả trở lại việc xây dựng NTM.
Hội nghị sơ kết 3 năm thực hành Chương trình MTQG xây dựng NTM khu vực miền núi phía Bắc Trong 3 năm qua, tổng vốn huy động cho xây dựng NTM của toàn khu vực miền núi phía Bắc là 92.
Việc tổ chức sản xuất nông nghiệp gắn với tiêu thụ nông phẩm mặc dù khó nhân rộng nhưng bước đầu đã có những tín hiệu khả quan, như việc hình thành được một số mô hình kết liên tiêu thụ chè tại tỉnh Thái Nguyên…. Theo đánh giá, diện tích mỗi tỉnh miền núi phía Bắc rất lớn, tài liệu đo đạc, khảo sát gốc phần đông là thiếu nên ảnh hưởng tới quy hoạch, địa hình hiểm trở gây khó cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển kinh tế - tầng lớp và giao thương, sinh sản trong vùng.
Đưa cán bộ khuyến nông xuống “ba cùng” tại địa bàn thôn, bản gắn với việc thực hiện dự án nông nghiệp tại địa bàn. 702 hiệp tác xã (HTX), chính yếu là HTX nông nghiệp. Nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Huy Ngọ, Cố vấn Ban Chỉ đạo xây dựng NTM cho rằng, nếu không giải quyết được căn cơ việc giảm nghèo thì sẽ không thể làm được NTM. Trên mặt chung, hiện tại, bình quân các xã xây dựng NTM của khu vực đạt 6,3/19 tiêu chí NTM, tăng 2,6 tiêu chí so với năm 2010, trong khi bình quân cả nước là 8,06 tiêu chí.
Phó Thủ tướng cũng đề nghị các tỉnh miền núi phía Bắc cần tính đến cả quy hoạch dân cư, đưa bà con dân tộc về sống tại từng điểm để tạo tiện lợi cho xây dựng điện, đường, trường, trạm.
Ngoài ra, ngân sách cũng sẽ tương trợ 50-70% kinh phí xây nhà máy nước, đường ống trục cấp nước sạch đến bể công cộng của xóm, bản, đặc biệt là công trình thủy lợi làm mối có thể đầu tư theo hình thức cộng tác công - tư (PPP). Từ nguồn vốn này, chương trình xây dựng NTM đã góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng và phát triển mô hình sản xuất, qua đó giúp đời sống người dân được cải thiện hơn, thu nhập bình quân tăng 35%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 7% so với trước.
Bộ NN&PTNT cho biết sẽ sớm xây dựng Chương trình phát triển nông nghiệp miền núi phía Bắc (loại chương trình mục tiêu) và Chương trình tổng thể xếp đặt, bố trí ổn định dân cư cho khu vực.
Cụ thể, đến nay, dù rằng đã có 80% số xã hoàn tất quy hoạch chung, nhưng chất lượng quy hoạch chưa đáp ứng được yêu cầu, và mới chỉ 53% số xã lập xong đề án xây dựng NTM trong khi bình quân cả nước là 70%.
Theo Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, trong quy hoạch NTM thì việc quan tâm trước nhất là quy hoạch sinh sản, ăn nhập với nhu cầu của thị trường vùng, trong nước và thị trường thế giới.
Do đó, Bộ NN&PTNT cho rằng, để tạo đà cho xây dựng NTM ở miền núi phía Bắc, tới đây, Chính phủ cần có chính sách đặc thù để phát triển hạ tầng cần yếu và phát triển nông lâm nghiệp. /. Xây dựng chính sách đặc thù cho doanh nghiệp đầu tư vào nông - lâm - ngư nghiệp để làm “đầu tàu” cho phát triển kinh tế - tầng lớp khu vực. Quan điểm của các địa phương cũng như lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành đều cho rằng, Nhà nước có nghĩa vụ hướng dẫn bà con các dân tộc tụ tập sản xuất, hình thành các vùng sinh sản quy mô lớn, áp dụng công nghệ kỹ thuật vào sản xuất và tổ chức liên kết nông dân - doanh nghiệp bền vững để thay đổi hình thức canh tác cũ, tạo ra thu nhập cao, ổn định cho bà con.
Đối với sản xuất nông nghiệp, sẽ đảm bảo vốn cho dự án nông nghiệp hàng hóa trọng tâm trong quy hoạch của vùng cũng như tăng đầu tư cho bố trí, sắp đặt dân cư….
Cụ thể, ngân sách sẽ hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng trục giao thông xã, 70-80% kinh phí xây dựng trục giao thông thôn bản và liên xóm (tương trợ tuốt luốt xi măng, cống dân sinh, hoài tham mưu nếu có…).
Bên cạnh đó, với đặc thù dân cư miền núi phía Bắc sinh sống phân tán, trình độ dân trí thấp, nhiều tập tục lạc hậu, nặng nề cũng ảnh hưởng tới việc xây dựng NTM.
Từ đó dẫn đến khả năng đóng góp của cộng đồng dân cư thấp (tỷ lệ hộ nghèo cao), điều kiện hỗ trợ từ ngân sách có hạn. 172 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách chiếm 65%, vốn nhân dân góp là 3,8%, còn lại là vốn tín dụng và vốn do doanh nghiệp đóng góp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét